Câu Hỏi: Tại sao, sau khi đạt đến tứ thiền chúng ta không đi thẳng vào phân biệt ngũ uẩn, tính chất vô thường – khổ – vô ngã của chúng, để thành tựu Niết-bàn? Tại sao trước khi đắc Niết-bàn chúng ta cần phải hành thiền trên ba mươi hai thể trược, bộ xương, kasiṇa trắng, tứ đại, danh-sắc, duyên khởi và Vipassanā (minh sát)?
Trả Lời : Đức Phật dạy pháp hành Minh sát trên ngũ uẩn cho ba loại người: người có tuệ nhạy bén, người mà tuệ minh sát của họ về danh không được rõ rệt, và người thích hành Vipassanā (minh sát) theo cách tóm tắt.
Thế nào là năm uẩn? Thế nào là sự khác nhau giữa năm uẩn và Danh-sắc?
Trước khi trả lời câu hỏi thứ hai này, chúng ta hãy bàn qua về Danh-sắc và ngũ uẩn. Có bốn thực tại tuyệt đối hay pháp chân đế (paramattha), tâm (citta), tâm sở (cetasikā), sắc (rūpa) và Niết-bàn (Nibbāna).
Muốn đạt đến Niết-bàn, thực tại tuyệt đối thứ tư, chúng ta phải thấy được tính chất vô thường, khổ và vô ngã của ba thực tại kia, tức là, chúng ta phải thấy:
1. Tám mươi chín loại tâm
2. Năm mươi hai tâm sở
3. Hai mươi tám loại sắc.
Tám mươi chín loại tâm được gọi là thức uẩn (viññāṇakkhandha). Trong năm mươi hai tâm sở, thọ là thọ uẩn (vedanākkhandha); tưởng là tưởng uẩn (saññakkhandha); và năm mươi tâm sở còn lại là hành uẩn (saṅkharakkhandha). Có khi tâm (citta), và các tâm sở (cetasikā) hợp lại gọi là Danh (nāma). Có khi chúng lại được thấy dưới dạng bốn uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn, gộp lại tạo thành Danh uẩn (nāmakhandha). Sắc uẩn (rūpakkhandha) là hai mươi tám loại sắc. Tâm, tâm sở và sắc hợp lại gọi là Danh-sắc (nāmā rūpa). Đôi khi chúng cũng được gọi là ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Các nhân của chúng cũng chỉ là Danh-sắc.
Năm uẩn bị chấp thủ này là Khổ đế pháp (Dukkha sacca dhammā): các pháp (dhamma) thuộc về Khổ thánh đế. Chúng cần phải được hiểu là như vậy. Trong “Mahānidāna sutta” (Kinh Đại Duyên) thuộc Trường Bộ I, đức Phật giải thích:
“Giáo pháp Duyên khởi này thật là thâm sâu, này Ānanda, và thâm sâu thay là pháp Duyên khởi. Này Ānanda, chính do không hiểu biết, không thể nhập Dhamma (pháp) này, mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một tổ kén, rối ren như một ống chỉ, bùng nhùng như rễ lau đan bện, không thể tìm được lối thoát ra khỏi vòng luân hồi với những khổ xứ, ác thú… đọa xứ của nó.”
Liên quan đến lời tuyên bố này, các bản chú giải giải thích:
Không một người nào, ngay cả trong giấc mộng, thoát ra khỏi cái vòng tử sanh luân lưu đáng sợ, đã từng hủy diệt (các hữu tình) như sấm sét, trừ phi người ấy, bằng dao tuệ, khéo mài trên đá thiền định cao thượng, cắt đứt đựơc cái bánh xe Sanh Hữu (duyên khởi), vốn không đưa ra một cơ sở nào (để hiểu được), do sự thâm sâu quá mức của nó, và cũng khó chấp nhận do tính chất phức tạp của nhiều pháp môn.
Điều này có nghĩa là người hành thiền nếu không biết, không thể nhập pháp Duyên khởi qua những giai đoạn Minh Sát Tuệ khác nhau, thì không thể thoát khỏi vòng tái sanh luân hồi.
Trong Aṅguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh) điều này đã được đức Phật nói rõ: “Và thế nào, này các tỳ khưu, là Thánh đế về Tập khởi của Khổ?
Do vô minh làm duyên, (có) các hành; hành làm duyên, có thức; thức làm duyên, có danh sắc; danh sắc làm duyên, có lục nhập; lục nhập làm duyên có xúc; xúc làm duyên, có thọ; thọ làm duyên, có ái; ái làm duyên, có thủ; thủ làm duyên, có hữu; hữu làm duyên, có sanh; sanh làm duyên, có già – chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
Như vậy là nguồn gốc (tập khởi) của toàn bộ khổ uẩn này. Này các tỳ khưu, đây gọi là Thánh đế về nguồn gốc “tập khởi của Khổ.”
Đây cũng được gọi là pháp duyên khởi. Và đức Phật đã từng nói duyên khởi là Thánh đế về Nguốc gốc của Khổ (samudaya sacca).
Thánh đế về Khổ, là năm uẩn chấp thủ, và Thánh đế về Nguồn gốc của Khổ, tức pháp Duyên khởi, được gọi là các Hành (saṅkhārā). Chúng là đối tượng của tuệ Minh sát (vipassanā). Ở những giai đoạn khác nhau của tuệ minh sát, hành giả phải nắm bắt được các hành này là vô thường, khổ và vô ngã. Không biết và thể nhập chúng, làm thế nào hành giả có thể nắm bắt được chúng là vô thường v.v…? Đó là lý do tại sao chúng tôi phải dạy thiền Minh sát theo hệ thống.
Muốn biết sắc chân đế, sắc thủ uẩn, hành giả phải hành thiền tứ đại cho tới khi thấy được sắc ấy bao gồm những phần tử nhỏ mà chúng ta gọi là các nhóm hay tổng hợp sắc (rūpa kalapas), và hành giả cũng cần phải thấy được tứ đại trong các nhóm sắc nhỏ ấy nữa. Sau đó hành giả cần phân biệt cả hai: căn và đối tượng của nó cùng với nhau. Không phân biệt sắc theo cách này, hành giả không thể nào phân biệt được danh, bốn danh uẩn chấp thủ. Đó là lý do vì sao chúng tôi dạy Vipassanā theo từng giai đoạn.
Bây giờ, trả lời cho câu hỏi thứ hai của hành giả. Theo truyền thống Phật giáo Thượng Tọa Bộ (Theravāda), có hai loại đề tài thiền (kammaṭṭhāna) là: parihāriya kammaṭṭhāna và sabbatthaka kammaṭṭhāna.
Pārihāriya kammaṭṭhāna – Ứng dụng nghiệp xứ – là đề tài thiền mà cá nhân mỗi hành giả qua đó tu tập định để dùng làm nền tảng cho Minh sát . Hành giả phải luôn luôn sử dụng đề tài thiền này như nền tảng của mình. Còn Sabbatthaka kammaṭṭhāna – Nhất thiết xứ Nghiệp xứ – ngược lại, là đề tài thiền mà tất cả các hành giả đều phải tu tập giống nhau. Đó là bốn thiền bảo hộ.
1. Thiền tâm Từ (mettā bhāvanā)
2. Niệm ân đức Phật (Buddhānussati)
3. Niệm sự chết (maraṇānussati)
4. Quán bất tịnh (asubha bhāvanā)
Như vậy, mặc dù một hành giả sử dụng niệm hơi thở như “Ứng dụng nghiệp xứ” của mình, song vẫn phải thực hành bốn thiền bảo hộ này trước khi chuyển sang tu tập Minh sát. Đây là cách tiến hành theo đúng truyền thống đạo Phật.
Muốn tu tập thiền tâm từ cho đạt đến một bậc thiền nào đó, nếu hành giả đã tu tập thiền kasiṇa màu trắng đạt đến tứ thiền rồi vẫn tốt hơn. Câu chuyện về năm trăm vị tỳ khưu mà bài “Kinh Từ Bi” (karaṇīyametta sutta) đã được đức Phật dạy cho họ là một điển hình. Các vị tỳ khưu này rất thông thạo trong mười kasiṇa (đề mục biến xứ) và tám thiền chứng (samāpatti), đã hành Minh sát đạt đến Sanh diệt tuệ (udayabbaya ñāṇa), và cùng nhau đi vào rừng để hành thêm. Nhưng cuối cùng họ phải quay về với đức Phật vì các vị chư Thiên cư ngụ trong khu rừng ấy cảm thấy khó chịu trước sự có mặt của các vị tỳ khưu, và hiện ra những tướng quái dị để dọa dẫm các vị tỳ khưu này. Nhân đó đức Phật dạy họ bài kinh “Từ Bi” vừa như một đề tài thiền và vừa như một bài kinh cầu an (paritta).
Là một đề tài thiền, bài kinh này dành cho những vị đã đắc thiền tâm từ (mettā jhāna) và đã phá bỏ được các ranh giới giữa những loại người khác nhau. Nói chung, “Kinh Từ Bi” là một pháp hành về tâm từ đã được chuyên biệt hóa, trong đó hành giả thực hành lên đến tam thiền bằng cách mở rộng tâm từ đến mười một loại người với ý nghĩ “Sukhino v khemino hontu, sabbe sattā bhavantu sukhitattā” (Cầu mong tất cả chúng sanh được an ổn và hạnh phúc v.v…). Kinh nói rằng đức Phật biết năm trăm vị tỳ khưu này chắc chắn sẽ hành rất dễ, vì họ đã thành thạo trong mười kasiṇa. Và thiền tâm từ được hành dễ dàng hơn nhờ thiền kasiṇa như thế nào?
Trong Tăng Chi Kinh đức Phật nói rằng: trong bốn kasiṇa màu (xanh, vàng, đỏ, trắng), kasiṇa trắng là thù thắng nhất. Kasiṇa trắng làm cho tâm hành giả trong sáng rõ ràng. Một cái tâm trong sạch và tĩnh lặng như vậy rất cao thượng và đầy năng lực. Nếu hành giả hành thiền tâm từ với tâm trong sáng, không có những phiền não, thì thường thường sẽ đắc thiền tâm từ trong một thời ngồi thiền. Vì vậy nếu hành giả nhập tứ thiền kasiṇa trắng, sau đó xuất khỏi thiền ấy, và hành thiền tâm từ sẽ rất dễ thành công.
Để đạt đến tứ thiền kasiṇa trắng, người hành thiền trước tiên phải hành thiền bộ xương bên trong và bên ngoài. Vì như vậy sẽ làm cho thiền kasiṇa trắng trở nên dễ hơn. Do đó, sau tứ thiền hơi thở chúng tôi thường dạy các thiền sinh hành ba mươi hai thể trược, thiền bộ xương và thiền kasiṇa trắng. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, phần lớn các hành giả đều nói rằng: tứ thiền kasiṇa trắng tốt hơn tứ thiền hơi thở, vì nó tạo ra một cái tâm rõ ràng hơn, trong sáng hơn và tĩnh lặng hơn, được xem là rất hữu ích cho việc hành các đề tài thiền khác. Vì thế chúng tôi thường dạy thiền kasiṇa trắng trước khi thiền tâm từ.
Cũng có một vấn đề chung đối với những người mới hành thiền. Có thể hành giả đã hành thiền tâm từ rồi. Nhưng, hành giả đạt đến thiền (jhāna) chưa? Trong thực hành, nếu một hành giả muốn mở rộng tâm từ đến một người cùng phái nào đó, trước hết hành giả phải lấy khuôn mặt tươi cười của người ấy làm đối tượng, rồi tu tập tâm từ hướng về người ấy với ý nghĩ: “Cầu mong con người tốt đẹp này thoát khỏi sự khổ tâm v.v…”. Đối với hành giả sơ cơ, khuôn mặt tươi cười ấy chẳng bao lâu sẽ biến mất. Hành giả không thể nào tiếp tục thiền tâm từ của mình được, vì không có đối tượng, do đó mà hành giả không thể đắc thiền tâm từ hoặc một thiền nào khác.
Nếu hành giả dùng tứ thiền kasiṇa trắng, thì lại khác. Hành giả xuất khỏi thiền này, và khi tu tập tâm từ, lúc ấy nhờ có định đi trước nên khuôn mặt tươi cười (đối tượng) sẽ không biến mất. Hành giả có thể tập trung sâu vào hình ảnh đó, và có thể đắc đến tam thiền tâm từ trong một thời tọa thiền. Nếu hành giả hành có hệ thống và đạt đến chỗ phá bỏ được những ranh giới giữa các hạng người, thì thậm chí hành giả có thể hành được mười một cách rải tâm từ theo Kinh Từ Bi (Karaṇīyamettā sutta), và năm trăm hai mươi tám cách đề cập trong bộ “Luận Vô Ngại Giải Đạo” (Paṭisambhidā Magga). Cũng chính vì lý do này, chúng tôi thường thường dạy thiền kasiṇa trắng trước thiền tâm từ.
Hành giả cũng có thể đã hành pháp môn niệm Ân đức Phật (Buddhānussati). Song hành giả đã đắc cận định chưa? Khi người nào đã thành công trong thiền tâm từ rồi thực hành pháp môn tùy niệm Phật, họ có thể đạt đến cận định trong một thời ngồi thiền, ở đây cũng là do có định đi trước vậy. Quán bất tịnh (asubha) cũng sẽ trở nên dễ dàng. Nếu hành giả hành thiền (quán) bất tịnh đạt đến sơ thiền, rồi sau đó niệm sự chết (maraṇānussati), hành giả có thể thành công trong một thời ngồi thiền.
Đó là lý do tại sao chúng tôi dạy thiền kasiṇa trắng truớc bốn thiền bảo hộ. Tuy nhiên, nếu một hành giả muốn đi thẳng vào Minh sát (vipassanā), không hành bốn thiền Bảo hộ, họ có thể làm vậy, không có vấn đề gì cả.
Đại Lão Thiền Sư Pa Auk Sayadaw
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasam Buddhassa.